Tọa đàm “Đảm bảo an ninh năng lượng - Nền tảng phát triển bền vững”

Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 đề ra mục tiêu phấn đấu đảm bảo cung cấp đủ năng lượng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể đến năm 2020 đạt khoảng 100- 110 triệu TOE năng lượng sơ cấp và khoảng 310- 320 triệu TOE vào năm 2050.

Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia điều chỉnh giai đoạn 2011- 2020 có xét đến năm 2030 đặt ra các mục tiêu cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước với mức tăng GDP bình quân khoảng 7,0%/năm trong giai đoạn 2016- 2030. Theo đó, dự kiến đến năm 2020, tổng công suất các nhà máy điện khoảng 60.000 MW, định hướng đến năm 2030, con số này đạt khoảng 129.500 MW.

Thực tế này đòi hỏi chúng ta tiếp tục phát triển các nguồn năng lượng một cách hài hòa, hợp lý, trên cơ sở bảo đảm phát triển của cả nước trong các lĩnh vực kinh tế- xã hội, đồng thời gắn với yếu tố bảo vệ môi trường, chất lượng tăng trưởng trên thực tế. Với chủ đề “Đảm bảo an ninh năng lượng - Nền tảng phát triển bền vững”, chương trình tọa đàm trực tuyến do Báo điện tử Đại biểu Nhân dân tổ chức nhằm thảo luận về: (1) Nhu cầu và áp lực bảo đảm an ninh năng lượng trong bối cảnh hiện nay; (2) Những thách thức giữa tăng trưởng kinh tế và an ninh năng lượng; (3) Chính sách và giải pháp thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam.

Khách mời tham gia Tọa đàm gồm:

Ông Nghiêm Vũ Khải, ĐBQH, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA);

- Ông Lưu Bình Nhưỡng, Phó trưởng Ban Dân nguyện của UBTVQH;

- Ông Dương Minh Tuấn, Phó trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;

- Ông Thạch Phước Bình, Phó trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Trà Vinh;

- PGS.TS Bùi Thị An, Viện trưởng Viện Tài nguyên môi trường và phát triển cộng đồng; Chủ tịch Hội Nữ tri thức Hà Nội;

- Ông Nguyễn Khoa Khôi, Giảng viên chính Ngành Kinh tế năng lượng;

- Ông Ngô Đức Lâm, Chuyên gia năng lượng, nguyên Phó Viện trưởng Viện Năng lượng (Bộ Công Thương);

- Bà Ngụy Thị Khanh, Giám đốc Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID);

 

Nhu cầu và áp lực bảo đảm an ninh năng lượng trong bối cảnh hiện nay

Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng: Nhu cầu về năng lượng là thách thức rất lớn với Việt Nam khi các nguồn năng lượng sơ cấp như than đá, dầu khí… đang được khai thác hết, hoặc đang cạn kiệt, không đủ cho nhu cầu trong nước. Điện năng sản xuất từ thuỷ điện năm 2030 sẽ chỉ chiếm khoảng 12,4%. Mặt khác, các yêu cầu ngày càng cao về bảo vệ môi trường cũng tạo ra áp lực to lớn đối với việc thực hiện chiến lược đảm bảo an ninh năng lượng gắn với phát triển bền vững.

Báo cáo của Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công thương) cũng cho thấy, từ năm 2015, Việt Nam đã chuyển từ xuất khẩu sang nhập khẩu năng lượng. Cụ thể, trước đây, Việt Nam từng xuất khẩu điện sang Campuchia, Lào và cũng là nước xuất khẩu than lớn, đỉnh điểm lên tới 20 triệu tấn than/năm. Nhưng từ năm 2015, Việt Nam đã nhập khẩu gần 10 triệu tấn than và dự kiến sẽ nhập 17 triệu tấn than, chiếm khoảng 31% sản lượng than cho nhu cầu phát điện đến năm 2020, tiếp tục tăng mạnh nhập khẩu than vào những năm sau đó.

Thưa ông Ngô Đức Lâm, nên hiểu vấn đề an ninh năng lượng như thế nào trong phát triển kinh tế - xã hội? Việt Nam từ một nước xuất khẩu sang nhập khẩu về năng lượng có ảnh hưởng như thế nào đến vấn đề an ninh năng lượng của đất nước?

Ông Ngô Đức Lâm: Bảo đảm an ninh năng lượng là một trong những vấn đề về an ninh hàng đầu của mỗi quốc gia. Tầm quan trọng của an ninh năng lượng đứng ở vị trí thứ 5 trong số 7 vấn đề an ninh: an ninh quốc phòng, an ninh chính trị - xã hội, an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nước và sinh thái, an ninh môi trường. Trong đó, an ninh năng lượng có mối quan hệ chặt chẽ với các vấn đề khác. Chúng ta hiểu an ninh năng lượng đủ là để bảo đảm cho an ninh quốc phòng, an ninh chính trị- xã hội… Tuy nhiên, vấn đề an ninh năng lượng không những cần bảo đảm đủ mà còn phải ổn định trong thời gian dài. Do đó, Việt Nam cần có lộ trình cụ thể, đáng tin cậy, lâu dài nhằm bảo đảm cho vấn đề an ninh năng lượng. Ngoài ra, cũng cần chú trọng yếu tố chi trả đủ về mặt tài chính của cả xã hội cho an ninh năng lượng.


Chuyên gia năng lượng, nguyên Phó Viện trưởng Viện Năng lượng (Bộ Công thương) Ngô Đức Lâm

Không thể đánh giá an ninh năng lượng một cách cảm tính, chúng ta phải nhận thức rõ áp lực an ninh năng lượng lên xã hội hiện nay. Trên thế giới có các tiêu chí đánh giá an ninh năng lượng khác nhau theo hoàn cảnh riêng của từng quốc gia. Nhưng ít nhất phải bảo đảm hai yếu tố như: Thứ nhất, đa dạng hoá các nguồn năng lượng sơ cấp như dầu, than, khí… Thứ hai, phải bảo đảm khả năng nhập khẩu năng lượng. Đây là hai tiêu chí bắt buộc với an ninh năng lượng của bất kỳ quốc gia nào, trong đó có Việt Nam.

Hiện nay, dự kiến đến năm 2025, Việt Nam đạt khoảng 60.000 MW. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh kinh tế phát triển mạnh như hiện nay, việc bảo đảm an ninh năng lượng theo hướng đủ đã là khó đối với Việt Nam. Bởi khi kinh tế- xã hội phát triển càng mạnh thì nhu cầu về năng lượng phải cao hơn. Theo đó, muốn bảo đảm kế hoạch năng lượng đến năm 2030 thì Việt Nam sản xuất năng lượng khoảng 40 triệu tấn than và sẽ phải đi nhập khoảng 80 triệu tấn than để đảm bảo cho an ninh năng lượng. Nhưng Việt Nam chưa có lộ trình nhập than “dài hơi” như vậy. Vì thế, vấn đề an ninh năng lượng khó đảm bảo trong thời gian tới.

Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng: Mỗi năm nhu cầu điện tăng bình quân 10%, tương ứng 4.000-5.000 MW. Điều này có nghĩa, mỗi năm phải có 3-4 nhà máy điện công suất lớn, có tổng trị giá 10 tỷ đô phải được khởi công xây dựng. Vậy mà từ năm 2016 đến nay, không có dự án nào được khởi công, không có dự án nào hoàn thành để đưa vào vận hành. Đây có phải là nguyên nhân khiến rủi ro thiếu điện đang treo lơ lửng ở khoảng cách rất gần, thưa bà Ngụy Thị Khanh, Giám đốc Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh?

Bà Ngụy Thị Khanh: Nguy cơ thiếu điện sẽ xảy ra từ những năm 2020 là vấn đề hiện hữu được Tập đoàn Điện lực thừa nhận. Theo tôi, thấy có mấy nguyên nhân dẫn đến tình trạng này gồm:


Giám đốc Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID) Ngụy Thị Khanh

Thứ nhất, nguồn điện đưa vào sử dụng theo dự kiến là 4.000-5.000 MW, nhưng nguồn này theo quy hoạch thì chủ yếu là nhiệt điện than. Theo báo cáo mới đấy nhất của Bộ Công thương, đa phần dự án chậm tiến độ là các dự án nhiệt điện than. Vì sao lại chậm? Trước hết là do không huy động được tài chính, tiếp đó là khó khăn quy hoạch địa điểm, bởi còn có sự đồng thuận của địa phương hay không; cuối cùng là có những dự án đã quy hoạch được địa điểm nhưng vì khó khăn về vấn đề tài chính, thiếu nguồn than nhập khẩu.

Thứ hai, có những nguồn mới là năng lượng tái tạo nhưng không được ưu tiên trong quy hoạch. Như vậy, một loạt nguồn năng lượng tái tạo, tính đến cuối tháng 6 này lên tới 5.000 MW điện mặt trời, nhưng bị vướng về vấn đề truyền tải, về vấn đề hoà lưới. Tức là có nguồn nhưng không có lưới điện để đưa đi. Cả hai vấn đề này đều liên quan đến triết lý quy hoạch, chúng ta chọn việc phụ thuộc nhiều vào nguồn điện than mà chưa tính toán đến phương án đa dạng về an ninh năng lượng để có phương án bổ sung nguồn mới.

Thứ ba, nhu cầu tăng cao mà nguồn cung giới hạn, rõ ràng chúng ta phải tìm nguồn khác. Bài toán sử dụng hợp lý và hiệu quả là vấn đề cần được xem xét, nguồn nhiên liệu đầu tiên cần phải được ưu tiên. Chúng ta đã có những chương trình mục tiêu quốc gia về vấn đề này, đặc biệt đã có luật quy định, nhưng hiệu quả của việc ưu tiên đầu tư, chính sách, nỗ lực thực hiện trong vấn đề này cũng chưa được như mong muốn để có thể cắt giảm được nhu cầu. Đây cũng là lý do vì sao liên quan đến nhiều ngành sử dụng điện phát triển dẫn đến ngành điện phải chạy theo để đáp ứng cho những ngành tiêu tốn điện năng như sắt, thép, xi măng. Thực tế cho thấy việc rủi ro xuất phát từ việc không đủ nguồn là đúng, nhưng đó chưa phải là bức tranh toàn cảnh, để giải quyết được bức tranh toàn cảnh, tôi cho rằng xem ngược lại từ công đoạn quy hoạch.

Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng: Thưa ông Nghiêm Vũ Khải, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, là người am hiểu rất kỹ về năng lượng trong nước và quốc tế, theo ông cần phải làm gì để “hóa giải” những khó khăn, nguy cơ thiếu hụt nguồn năng lượng đó? Cùng với nỗ lực của ngành điện nói chung, theo ông, Nhà nước cũng như chủ đầu tư cần phải làm gì trong việc bảo đảm an ninh năng lượng trong hệ thống?

Ông Nghiêm Vũ Khải: Năm 2009, khi còn là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của QH Khóa XII, tôi đã thay mặt cho Ủy ban chủ trì, thẩm tra Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả năm 2010.  Lúc đó, chúng ta được tiếp thu nhiều quan điểm, xu thế tiến bộ của thế giới: tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo trong tổng sơ đồ điện quốc gia, đề ra các biện pháp khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo. Song song với đó, một vấn đề  quan trọng để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia là chúng ta sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.

ĐBQH, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) Nghiêm Vũ Khải

Kinh nghiệm lúc đó cho thấy, đến bây giờ vẫn đúng: Các quốc gia muốn tăng trưởng 1% GDP thì phải tăng trưởng không đến 1% năng  lượng, nhưng với nước ta, nếu tăng trưởng 7% GDP thì  nhu cầu năng lượng tăng hơn 7%, nếu tăng trưởng 7,5% thì phải tăng trưởng 10,5% năng lượng. Có thể nói, vấn đề tiết kiệm là vấn đề cực kì quan trọng, hiện chúng ta sử dụng thiết bị cũ, hao tổn năng lượng quá mức cần thiết. Đặc biệt, thất thoát năng lượng trong quá trình vận chuyển và sử dụng, hướng vào các ngành công nghiệp tiêu tốn năng lượng như luyện kim, luyện thép… sử dụng điện, dầu khí lớn nhưng hiệu quả đem lại không cao. Trong khi đó, ở nước ngoài, những công ty sử dụng công nghệ cao như tập đoàn Samsung sử dụng ít điện nhưng hiệu quả đầu ra thì cao. Như vậy, song song với bảo đảm an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường, các mục tiêu hiệu quả của phát triển năng lượng thì khâu sử dụng tiết kiệm, hiệu quả phải đi đầu.

Trong tỷ lệ phát triển năng lượng quốc gia, tôi nghĩ tất cả chúng ta đều đồng thuận tăng tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo. Còn tăng như thế nào chúng ta cần bàn thêm. Bên cạnh đó, cần giảm năng lượng hóa thạch, cả dầu khí, cả than, giảm có lộ trình. Trong khi chúng ta còn sử dụng thì chúng ta phải sử dụng công nghệ sạch. Trong sản xuất năng lượng than có rất nhiều phụ kiện, thiết bị mua thêm để bảo đảm hạn chế bụi khí. Chúng ta phải có kiểm soát tốt. Đương nhiên như vậy nhà đầu tư phải đầu tư tiền, kéo theo giá điện phải tăng và nên chấp nhận điều đó. Tuy nhiên, với cách đặt vấn đề và quan niệm như nhận thức của người dân hiện nay thì khó đạt mục tiêu đề ra.

Tôi cho rằng, cốt lõi của vấn đề sử dụng năng lượng tái tạo là vấn đề phải đầu tư cho công nghệ. Nếu mua toàn phần từ nước ngoài thì rất đắt nên chúng ta có thể tham gia vào chuỗi sản xuất, mua linh kiện lắp đặt như pin mặt trời, tất cả chuỗi công nghệ đó ta phải từng bước tham gia vào một công đoạn trong đó. Dần dần tiến tới chúng ta có một tỷ trọng công nghệ của Việt Nam, chứ nếu tất cả đi mua thì là thách thức. Cần có chính sách và thực hiện chính sách hiệu quả trong tương lai.

Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng: Thưa PGS.TS Bùi Thị An, Viện trưởng Viện Tài nguyên môi trường và phát triển cộng đồng, từ góc độ nhà nghiên cứu, bà đánh giá về vấn đề này thế nào? 

Bà Bùi Thị An: Tôi cho rằng bảo đảm an ninh năng lượng là vấn đề rất lớn. Năng lượng vô cùng quan trọng, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của bất cứ quốc gia nào. Trong ngành năng lượng nói chung, đặc biệt là ngành điện có đóng góp rất lớn đến phát triển kinh tế của Việt Nam trong suốt những năm qua. Tôi xem những clip về việc đưa điện ra đảo Cô Tô, tôi đã rất cảm động, và rõ ràng đây là sự cố gắng của ngành điện. Tôi muốn nhấn mạnh tác động xã hội rất tích cực, làm cho kinh tế phát triển, làm cho xã hội văn minh lên, hiện đại lên, năng suất lao động đất nước tăng lên, trong đó thể hiện là GDP năm sau cao hơn năm trước. Chúng tôi lại muốn nhấn mạnh ý nghĩa khác, tác động xã hội có cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, làm sao vẫn bảo đảm phát triển năng lượng, và vừa bảo đảm sự trong sạch của môi trường. Cái này, trong Hiến pháp ta quy định rất rõ, cụ thể là Điều 43: mọi người đều được sống trong môi trường trong lành.

Viện trưởng Viện Tài nguyên môi trường và phát triển cộng đồng; Chủ tịch Hội Nữ tri thức Hà Nội Bùi Thị An

Vấn đề là trong an ninh năng lượng, tôi kiến nghị, Chính phủ, Quốc hội và các nhà chuyên môn nên chọn nguồn nào cho phù hợp với Việt Nam: năng lượng tái tạo, nhiệt điện than, thủy điện, năng lượng mặt trời… phù hợp với Việt Nam, giá thành rẻ, bảo vệ môi trường để bảo đảm mọi người dân ta có đủ điện để sử dụng và sản xuất. Để lựa chọn nguồn nào thích hợp cho Việt Nam trong giai đoạn này hay giai đoạn khác, thì có liên quan đến vấn đề kinh tế và môi trường. Phải tính toán được các vấn đề như đầu vào của nhiệt điện than là bao nhiêu, công nhân bao nhiêu để có 1KW; rồi năng lượng mặt trời là bao nhiêu, năng lượng gió là bao nhiêu… Tôi cho rằng khi đã hợp lý thì người dân sẽ đồng thuận, khi người dân đồng thuận thì sẽ có tất cả. Vì vậy, cần phải tính toán cụ thể, minh bạch để tham mưu cho Chính phủ chọn loại hình nào cho phù hợp, vẫn bảo đảm an ninh năng lượng, sự hài hòa về môi trường, bảo đảm hưởng thụ - trong ngưỡng chịu được về giá của người dân.

Những thách thức giữa tăng trưởng kinh tế và an ninh năng lượng

Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng: Việt Nam nằm trong top những nước tiêu thụ năng lượng tương đối lớn so với khu vực và trên thế giới. Tăng trưởng kinh tế liên tục với tốc độ khá cao của Việt Nam giúp cải thiện mức sống của người dân và làm tăng nhu cầu sử dụng năng lượng. Trong giai đoạn 2016-2030, dự báo, tốc độ tăng trưởng GDP với kịch bản cơ sở bình quân 7%, tương ứng với tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm toàn quốc ở phương án cơ sở giai đoạn 2016-2020, 2021-2025 và 2026-2030 lần lượt là 10,6%, 8,5% và 7,5%. Tăng trưởng kinh tế càng nhanh đòi hỏi nguồn năng lượng sử dụng càng lớn.

Quan điểm chỉ đạo của Chính phủ là phải đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, trong đó đảm bảo cung cấp đủ điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ quan trọng. Bởi nếu để xảy ra thiếu điện, việc sản xuất kinh doanh sẽ đình trệ, đời sống sinh hoạt của người dân gặp không ít khó khăn, kinh tế có thể bị tăng trưởng chậm lại. Bài học thiếu năng lượng kéo giảm đà phát triển vào những năm 90 đã từng được ghi nhận.

Thưa ông Nghiêm Vũ Khải, những năm qua, Chính phủ đã quan tâm và dành sự ưu tiên cao để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang coi phát triển kinh tế là trọng tâm và ngành năng lượng phải dốc sức “chạy theo”, thậm chí phải đi trước một bước. Điều này có đúng không, thưa ông?

Ông Nghiêm Vũ Khải: Chúng ta biết rằng, năng lượng như là máu của phát triển kinh tế, vì thế các định hướng phát triển kinh tế- xã hội của Đảng thông qua các Đại hội, nghị quyết, chủ trương, chiến lược đều đề ra mục tiêu là đáp ứng nhu cầu cho phát triển kinh tế. Đó là về mặt chủ trương.

Về mặt thực tiễn, chúng ta chưa bao giờ để thiếu năng lượng một cách trầm trọng. Thiếu điện, mất điện cũng từng xảy ra nhưng chưa đến mức kiệt quệ. Đó là nỗ lực lớn của Chính phủ trong việc cung cấp năng lượng, trong trường hợp bí bách cũng phải mua của nước ngoài hoặc sử dụng nguồn năng lượng cấp tốc. Trên thực tế, sự phát triển năng lượng của chúng ta để đáp ứng nhu cầu của kinh tế cũng có quy hoạch nhưng việc triển khai bị động, nhiều kế hoạch không đạt yêu cầu đề ra nên cũng gây ra những tổn thất, thiệt hại cho ngành kinh tế.

Mặc dù năng lượng về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu nhưng mới chỉ chạy theo số lượng chứ chúng ta không có một sự tiếp cận thông minh. Như tôi đã nói, một mặt chúng ta phải giảm những nghành sản xuất tiêu tốn quá nhiều năng lượng như luyện kim, sản xuất xi măng…, song song với đó chúng ta áp dụng những biện pháp năng cao hiệu quả tiết kiệm năng lượng, công nghệ phải mới lên. Rồi tập quán sử dụng điện, sử dụng năng lượng của người dân phải thay đổi. Chúng ta phải có một chiến lược phát triển hài hòa giữa các nguồn năng lượng. Với tầm nhìn xa chúng ta phải phát triển năng lượng tái tạo mà đáng lý ra chúng ta phải phát triển cách đây 20 năm rồi.

Năm 2004, tôi được đi dự Hội nghị toàn thế giới về năng lượng tái tạo tại Cộng hòa liên bang Đức. Lúc đó người Đức đặt ra mục tiêu 20-20-20. Năm 2020 đưa tỷ lệ năng lượng tái tạo lên 20% trong sơ đồ sử dụng điện của Đức, giảm 20% phác thải khí nhà kính. Nhưng cách đây 5 năm người ta đã hoàn thành mục tiêu này rồi. Do họ phát triển năng lượng tái tạo một cách bài bản như vậy nên giá năng lượng tái tạo lại giảm, dễ tiếp cận. Như vậy, nếu chúng ta có tầm nhìn, công nghệ nội địa phát triển, chúng ta có chiến lược phát triển năng lượng tái tạo thì đây là một chiến lược tuyệt vời. Năng lượng tái tạo không chỉ cung cấp năng lượng cho nền kinh tế mà còn cung cấp việc làm cho người lao động. Hệ thống năng lượng tái tạo chỉ cần nhỏ cũng tạo rất nhiều việc làm cho người lao động. Như vậy, nó vừa tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo, vừa bảo vệ môi trường, vừa tạo công ăn việc làm cho người lao động, vừa tạo ra xã hội văn minh, tiên tiến, vô cùng đáng sống.

Theo tôi, mỗi giai đoạn có sự thiên lệch nhất định và không có sự hài hòa. Nhẽ ra 20 năm trước chúng ta mạnh dạn đầu tư cho năng lượng tái tạo thì chúng ta đã có một sơ đồ điện hài hòa và bền vững. Như điện than, bây giờ chúng ta có nguồn than cung cấp nhưng chỉ đáp ứng được ½. Trong tương lai chúng ta còn phải nhập than nhiều, như vậy rõ ràng không đảm bảo về an ninh năng lượng, có sự bấp bênh nhất định.

Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng: Thưa bà Ngụy Thị Khanh, hiện ngành năng lượng đang gặp nhiều sức ép để cung cấp đầy đủ cho nền kinh tế. Theo bà cần xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển thế nào cho phù hợp trong giới hạn nguồn cung năng lượng?

Bà Ngụy Thị Khanh: Tôi tán thành với ý kiến phải đảm bảo về chiến lược quy hoạch phát triển năng lượng trong giai đoạn tới đây.

Thứ nhất, phải cân đối, cân bằng, đa dạng giữa các nguồn, trong đó ưu tiên tập trung khai thác tối đa những nguồn tài nguyên năng lượng nội địa. Điều đó giúp chúng ta bảo đảm tiêu chí an ninh năng lượng, tránh bị phụ thuộc vào nguồn có rủi ro về nguồn cung, về nhập khẩu và về giá. Đây là điều đầu tiên mà theo tôi trong các chiến lược, quy hoạch tới đây cần phải bảo đảm sự cân bằng này và tăng nguồn cung về năng lượng tái tạo lên để khai thác được những nguồn tài nguyên hiện có.

Thứ hai, cần ưu tiên nỗ lực trong chính sách và trong thực thi, trong đầu tư về tài chính. Đó chính là giải pháp thúc đẩy phát triển năng lượng hiệu quả, thậm chí phải có những điều chỉnh về đường hướng chính sách, sao cho bảo đảm thúc đẩy ngành kinh tế ít năng lượng nhưng tạo ra giá trị kinh tế cao hơn. Để làm được điều đó, lại quay lại câu chuyện chính sách về giá điện theo thị trường, tính đúng tính đủ, cần phải tách bạch để các đơn vị sản xuất điện được bảo đảm về tài chính, được kinh doanh chứ không phải gắn trách nhiệm xã hội. Tách vấn đề bù chéo hay trách nhiệm xã hội ra khỏi doanh nghiệp để doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.

Thứ ba, về vấn đề phát triển năng lượng tái tạo như thế nào cho phù hợp, theo tôi cần phải có tầm nhìn và chính sách gắn kết, sự phối hợp nhịp nhàng giữa các ngành, không chỉ giữa là ngành năng lượng. Bởi khi, Bộ Công thương thúc đẩy và hỗ trợ cho các dự án thì lại bị vướng về Luật Quy hoạch. Hiện nay chỉ mới tập trung vào quy mô phát triển lớn, nhưng kinh nghiệm của các quốc gia phát triển năng lượng tái tạo là cần quan tâm đến quy mô cả về tập trung và phân tán, vì bản chất của năng lượng tái tạo là phân tán, khi phát triển phân tán mới giảm áp lực lên lưới điện và lúc đó mới huy động được nguồn lực của xã hội, huy động được sự tham gia của các địa phương, của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và của toàn xã hội.

Chúng tôi cũng từng nghiên cứu riêng ở ĐBSCL và Cần Thơ cho thấy, mô hình mà tất cả các tỉnh ở ĐBSCL đều quan tâm là mô hình phát triển tích hợp năng lượng tái tạo với nông nghiệp. Đây là mô hình một số nước như Nhật, Đức, Trung Quốc đã thực hiện. Kết quả nghiên cứu cho thấy hiện nay có nhiều mô hình có thể phù hợp như phát triển năng lượng mặt trời bên trên và những loại cây trồng ưa bóng râm ở bên dưới. Nếu chúng ta có được mô hình kết hợp sử dụng được diện tích, thậm chí là canh tác lúa, nhưng bên trên vẫn phát triển được năng lượng tái tạo mặt trời thì giá trị bằng tiền về đất được tăng lên rất nhiều, mở ra cơ hội đầu tư và cho cả người dân và địa phương.

Câu chuyện về phát triển năng lượng tái tạo trong chính sách không chỉ cho ngành năng lượng mà cần có sự chung tay vào cuộc của các ngành khác, đặc biệt là vai trò của cấp địa phương, cấp tỉnh. Rất nhiều doanh nghiệp và nhiều dự án năng lượng tái tạo triển khai ở địa phương nhưng vấn đề nhân lực rất thiếu, tức là có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng được. Tôi cho rằng, trong 2 năm tới chúng ta có rất nhiều cơ hội để điều chỉnh và đưa những vấn đề này vào trong chính sách, đặc biệt là đối với Quy hoạch điện VII (điều chỉnh).

Chúng ta cần có những điều chỉnh, thay đổi về triết lý trong quy hoạch chứ không chỉ dựa vào những nguồn tập trung, nguồn nhiệt điện như hiện tại bởi nhiều rủi ro về tài chính. Bên cạnh đó, quy hoạch không đơn thuần chỉ là vấn đề công nghệ năng lượng nào mà thực hiện quy hoạch còn quan trọng liên quan đến tính khả thi. Ví dụ các rủi ro cần được phân tích theo hướng nhiệt điện than bây giờ các nhà đầu tư còn quan tâm nữa hay không? Nếu cứ đi theo mà không có tài chính thì sẽ bị trì hoãn. Còn với năng lượng tái tạo thì có thể đắt hơn nhưng chúng ta có cơ hội thu hút được nguồn đầu tư cho cơ sở hạ tầng mới và có kết hợp với các chiến lược phát triển nhân lực, từ đó chúng ta sẽ có cơ hội để điều chỉnh và kết hợp với cơ hội tạo việc làm.

Điểm tôi muốn nhấn mạnh ở đây là câu chuyện quy hoạch cần có thay đổi để mở rộng trong việc quan tâm nhiều đến tính khả thi về tài chính và sự đồng thuận xã hội, cơ cấu nguồn thì phải đa dạng để có cơ hội phát triển.

Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng: Giải quyết an ninh năng lượng và phát triển kinh tế phải có sự cạnh tranh phát triển về nguồn điện, cơ chế phân phối điện. Đây là yếu tố phát triển nguồn năng lượng bền vững không, thưa PGS.TS Bùi Thị An?

Bà Bùi Thị An: Nội dung này rất quan trọng trong việc giải quyết an ninh năng lượng và phát triển kinh tế. Tôi nghĩ rằng, trước tiên, chúng ta phải chọn nguồn năng lượng nào để phù hợp với sự phát triển kinh tế của Việt Nam, bảo đảm bền vững về kinh tế và môi trường. Vì vậy, tôi rất muốn tính cho rõ, ví dụ như TS. Nghiêm Vũ Khải có nhắc đến nguồn năng lượng tái tạo của Đức là đắt, nhưng thực ra lại là rẻ. Vì vậy, tôi rất muốn các chuyên gia trong lĩnh vực năng lượng phải tính cho cụ thể, từ kinh tế, an sinh xã hội, môi trường, sức khỏe... Trên cơ sở đó chúng ta sẽ lựa chọn, tính chi tiết, không cho ngành nào độc quyền. Giá cả phải minh bạch về đầu vào, từ nhân công, truyền tải, nhập… để hài hòa lợi ích doanh nghiệp - nhà nước- nhân dân.

Về phân phối điện, ta nên ưu tiên cho các ngành phát triển mũi nhọn của Việt Nam, còn ngành nào tiêu tốn quá nhiều nhiên liệu thì nên giảm đi. Tôi cho rằng, năng lượng phục vụ cho hạ tầng xã hội, trong đó có y tế, giáo dục… vô cùng quan trọng, cần được ưu tiên. Để cạnh tranh bình đẳng phải có nhiều loại hình năng lượng, nhưng phải tính minh bạch công khai, bảo đảm sự hài hòa lợi ích.

Không có năng lượng kinh tế không thể phát triển, nhưng có năng lượng mà giá đắt quá chúng ta không thể sử dụng được, hoặc có năng lượng mà nó gây ô nhiễm môi trường cũng không bảo đảm. Vì vậy, tôi muốn nhấn mạnh cạnh tranh lành mạnh, bảo đảm sự phát triển bền vững, hài hòa đúng theo định hướng của ta là: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng: Xin mời ý kiến của ông Lưu Bình Nhưỡng, quan điểm của ông về vấn đề sức ép của an ninh năng lượng lên phát triển kinh tế và phát triển kinh tế với vấn đề an ninh năng lượng như thế nào?

Ông Lưu Bình Nhưỡng: Nhìn ở khía cạnh xã hội, có 2 mảng rất rõ: năng lượng không chỉ giải quyết bài toán phát triển kinh tế thông thường, có nghĩa là phục vụ cho các doanh nghiệp, mà bản thân việc phục vụ cho quá trình sinh hoạt của người dân cũng chính là phục vụ mục tiêu phát triển, đừng nghĩ đó chỉ là phục vụ sinh hoạt thông thường. Chính vì vậy, tôi chưa thấy sự đánh giá một cách toàn diện của các nhà khoa học là, với việc đóng góp tỷ lệ năng lượng cho sinh hoạt thì nó giúp trở lại cho phát triển của hệ thống kinh tế của chúng ta bao nhiêu?

Phó trưởng Ban Dân nguyện của UBTVQH Lưu Bình Nhưỡng

Nhưng nếu phục vụ cho người dân tốt, có nghĩa bảo đảm an ninh cho hệ thống sản xuất ra của cải vật chất. Chính vì thế, khi điều chỉnh giá điện thời gian vừa qua, cái vấp phải đầu tiên không phải là phản ứng của doanh nghiệp, mà vấp phải sự phản ứng từ đời sống dân cư. Phản ứng của người dân rất khủng khiếp, nên tôi cho đây không phải chỉ là câu chuyện sinh hoạt. Chúng ta phải hình dung sự kết nối giữa hệ thống sản xuất, những người dân kia đang là cán bộ công nhân viên chức, người lao động, người trực tiếp của doanh nghiệp. Nên bảo đảm đời sống của họ, là bảo đảm cho họ tái sản xuất sức lao động. Hiện nay tôi thấy nghiên cứu này chưa có, để hỗ trợ đánh giá đầy đủ quan điểm, xây dựng chính sách thị trường, chính sách xã hội.

Nhà báo Nguyễn Quôc Thắng: Thưa Ông Thạch Phước Bình, qua quá trình theo dõi, giám sát tại địa phương thời gian qua, ông có nhận định gì về thách thức giữa tăng trưởng kinh tế và an ninh năng lượng?

Ông Thạch Phước Bình: Dưới góc độ địa phương, tôi cho rằng năng lượng rất là quan trọng đối với đời sống con người, trong đó bối cảnh tăng trưởng kinh tế với mối quan hệ giữa an ninh năng lượng là yếu tố đầu vào để phát triển kinh tế. Nhiều quốc gia trong đó có nước ta, có tỉnh Trà Vinh chúng tôi, trước nhu cầu tăng trưởng cao của nền kinh tế 6,7 -7% hiện nay cùng với nhu cầu về năng lượng, đặc biệt là điện năng đặt ra thách thức đó là vừa phát triển kinh tế mà vẫn phải đảm bảo kinh tế năng lượng.  Đây là một câu hỏi rất lớn đòi hỏi các nhà chức trách giải thích cho phù hợp.


Phó trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Trà Vinh Thạch Phước Bình

Đối với địa phương như Trà Vinh, một tỉnh rất là khó khăn ở khu vực đồng bằng Sông Cửu Long, thời gian qua qua việc giám sát, theo dõi thấy rằng cấp ủy chính quyền địa phương rất quan tâm tới phát triển kinh tế - xã hội. Trong những yếu tố đó, tỉnh rất quan tâm tới phát triển nguồn năng lượng đặc biệt là điện năng phục vụ cho sản xuất kinh doanh cũng như sinh hoạt của người dân. Tuy nhiên, cùng những khó khăn chung của cả nước, nhu cầu điện tăng gấp đôi, tỉnh cũng đã tập trung mọi giải pháp để có thể bình quân, hài hòa mà vẫn đảm bảo an ninh năng lượng. Tỉnh đã kêu gọi thu hút và được Trung ương đầu tư Trung tâm nhiệt điện Duyên Hải, Duyên Hải 1, Duyên Hải 2, Duyên Hải 3 mở rộng đến nay đã vận hành Duyên Hải 1, Duyên Hải 3 đến 2020.

Qua đầu tư này, ngân sách địa phương cũng thu được 700 – 800 tỷ/ năm, qua đó tỉnh phát triển khá bền vững. Từ năm 2005, tỉnh thu chưa tới 1.000 tỷ  nhưng đến nay qua sự đóng góp ngân sách, năm 2018 đã thu được 3.500 tỷ. Trong bối cảnh vừa phát triển trước áp lực đảm bảo an ninh năng lượng vừa phải đảm bảo vấn đề môi trường, tỉnh cũng đang vận động, kêu gọi các nhà đầu tư để đầu tư vào nguồn năng lượng tái tạo. Đặc biệt là kêu gọi dự án năng lượng điện gió, hiện tỉnh có 5 dự án và cuối tháng 6.2019 có một dự án điện gió đi vào vận hành.

Mới đây, chúng tôi đã triển khai dự án điện mặt trời tuy nhiên trong triển khai còn khó khăn do vướng Luật Quy hoạch và do số cơ chế khác. Thời gian tới, Trà Vinh tiếp tục kêu gọi trung ương đầu tư vào nguồn năng lượng tái tạo đặc biệt điện gió, điện mặt trời mà vẫn đảm bảo được vấn đề sản xuất, môi trường. 

Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng: Thưa ông Dương Minh Tuấn, tại địa phương của ông thì sao?

Ông Dương Minh Tuấn: Đối với tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu việc phát triển kinh tế và an ninh năng lượng có mối quan hệ trực tiếp, trong đó năng lượng phải là yếu tố đi trước. Chúng tôi thấy rằng, cần tạo điều kiện tối đa để phát triển nguồn năng lượng. Hiện nay, trong các nguồn năng lượng: thuỷ điện, khí, điện tái tạo, nhiệt điện… tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đều có đủ và có đóng góp lớn cho mạng lưới điện quốc gia.


Phó trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Dương Minh Tuấn

Do có lợi thế để phát triển năng lượng tái tạo là năng lượng gió dồi dào, lãnh đạo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cũng rất chú trọng việc đầu tư năng lượng tái tạo như: gió, năng lượng mặt trời trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, việc phát triển năng lượng tái tạo của người dân tại Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đang có vấn đề là khi dư thừa có thể bán lại cho lưới điện quốc gia, nhưng hiện nay Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) lại chưa chấp nhận việc lắp đặt đồng hồ hai chiều. Để năng lượng tái tạo có thể phát triển thuận lợi hơn tại Bà Rịa - Vũng Tàu, chúng tôi kiến nghị EVN cần sớm thực hiện việc lắp đặt đồng hồ hai chiều.

Nhà báo Nguyễn Quôc Thắng: Dự báo Việt Nam cần khoảng 130 tỷ USD giai đoạn (2010-2030) để đầu tư vào ngành năng lượng, trong đó 65,5% sẽ được chi cho phát triển điện. Thưa ông Nguyễn Khoa Khôi, nếu được thực hiện đúng và đủ, áp dụng nhiều giải pháp như ứng dụng công nghệ, phát triển năng lượng tái tạo, xây dựng và phát triển thị trường điện cạnh tranh… liệu có giảm sức ép lên ngành năng lượng, đủ khả năng vừa phục vụ kinh thế vừa đảm bảo được an ninh năng lượng quốc gia?

Ông Nguyễn Khoa Khôi: Hiện nay, chúng ta đã và đang sử dụng năng lượng điện năng quá nhiều so với các nước khác. Do trước đây, chúng ta thích mua thiết bị rẻ để về sử dụng, chứ không nghĩ rằng sử dụng thiết rẻ thì vận hành tăng, thiết bị lạc hậu thì năng suất lao động thấp, tốn nhiều lao động, tốn nhiều điện.


Giảng viên chính Ngành Kinh tế năng lượng Nguyễn Khoa Khôi

Nhiều ý kiến cho rằng chúng ta rất dồi dào các nguồn năng lượng, vậy cái nào là ưu thế? Trước đây dùng nhiều nhất là nhiệt điện, sau đó đến thủy điện rồi turbine khí, điện gió, điện mặt trời…

Trong đó, nhiệt điện là nhà máy gây ra nhiều ô nhiễm nhất, năng suất lao động thấp nhất, giá thành thấp, cho nên không việc gì chúng ta tập trung vào sản xuất. Thế giới hiện nay không dùng nhiều nhiệt điện nữa, có một số nước muốn bán nhiệt điện cho chúng ta bởi vì họ không dùng.

Còn Thủy điện có rất nhiều ưu thế. Thủy điện có thể làm nơi du lịch, có thể nuôi cá, giao thông vận tải, trị thủy, điều tiết cho nông nghiệp rất tốt. Thủy điện có năng suất lao động cao, bởi vì so với năng suất của một nhà máy nhiệt điện thì thủy điện năng suất gấp 10 lần. Đặc biệt, sản xuất ra điện hoàn toàn tự nhiên, nguồn nước có sẵn, sản xuất thủy điện rất rẻ, rẻ so với nhiệt điện không đáng kể, chúng ta chỉ khâu hao tiền lương, tiền bảo dưỡng sửa chữa. Tuy nhiên, xây dựng thủy điện thì phá hủy rừng, mất nước ở hạ du, đó là nhược điểm mà chúng ta cần xem xét, không phải ở đâu cũng làm được.

Turbine khí dùng nhiên liệu từ khí mà trực tiếp ở ngoài mỏ đưa vào để chạy, cho nên chi phí sản xuất rẻ, không phải vận chuyển kho bãi, ít ô nhiễm môi trường. Giá thành sản xuất của turbine khí cũng thấp hơn nhiệt điện.

Gió và mặt trời, hai công nghệ nghệ này mới. 20 năm trước, trình độ kỹ thuật để chế tạo ra các thiết bị đó đang còn thấp chưa có nhiều tiến bộ khoa học, thời gia sau này, năng suất trong ngành tăng cao thì thiết bị mới rẻ ra nên bây giờ ta mới dùng được. Tuy nhiên giá thành vẫn đắt hơn thủy điện.

Tôi nghĩ, chính sách của Chính phủ rất quan trọng, làm sao để cho người ta được đầu tư, vay vốn, giảm bớt những thuế hay như cho thuê mặt bằng không dung đến để dùng làm năng lượng pin mặt trời, biển để làm turbine giá rẻ, động viên họ đầu tư. Vì đầu tư ban đầu của họ lớn nhưng sau đó giá thành thì rẻ, dần dần kéo dài thời gia khấu hao. Ví dụ như nhà máy nhiệt điện 20 năm thì thủy điện thì phải dài hơn.

Để đảm bảo an ninh năng lượng, chính sách về giá rất quan trọng, trong đó có giá  mua năng lượng của các nhà máy và giá năng lượng của hộ tiêu thụ. Hiện nay chúng ta mua năng lượng của nhà máy nhiệt điện khác thủy điện, khác điện mặt trời. Vậy ai làm nhiệm vụ đó? Chính VPN có vai trò làm sao để mua các nguồn năng lượng, rồi bù chéo. Tức là nhiệt điện mua đắt lên, thủy điện phải mua rẻ đi để bù lại cho nhiệt điện, theo tôi VPN rất quan trọng, phải để VPN tồn tại để làm vai trò đó.

Giá bán cho hộ tiêu thụ phải tăng lên, các doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư năng lượng gió, mặt trời mà họ thấp giá như vậy thì khó hấp dẫn họ đầu tư. Thực tế vừa qua chúng ta đã làm được điều đó, hóa đơn tiền điện hiện nay chúng ta trả cho 1kw/h phải 2.500 đồng trở lên.

Hiện nay có kịch bản phát triển năng lượng mới nhằm đảm bảo bền vững an ninh năng lượng, tôi đề nghị, phải nâng tỉ lệ năng lượng tái tạo lên, vì chúng ta có tiềm lực có tiềm năng. Chúng ta phải có chính sách mua và bán hợp lý.

Chính sách và giải pháp thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam

Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng: Theo Đề án Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030 (gọi tắt là Quy hoạch điện VII) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, với quan điểm phát triển năng lượng tái tạo là khâu đột phá giúp bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường. Tuy nhiên, hiện việc đầu tư phát triển năng lượng tái tạo chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh sẵn có. Việt Nam chưa có cơ chế, chính sách thích hợp để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển năng lượng tái tạo; Chưa có nguồn nhân lực khoa học được đào tạo chính quy, có trình độ cao về năng lượng tái tạo…

Thưa bà Ngụy Thị Khanh, bà nhìn nhận thế nào về nhu cầu phải chuyển đổi sang các nguồn năng lượng tái tạo?

Bà Ngụy Thị Khanh: Theo quan điểm của cá nhân tôi cũng như kết quả nghiên cứu trong thời gian vừa qua của Trung tâm cho thấy nhu cầu chuyển sang phát triển và đẩy mạnh năng lượng tái tạo đối với Việt Nam đã trở nên cấp thiết. Việc cấp thiết được phản ánh ở chỗ:


Thứ nhất, các chính sách và chiến lược phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam được ban hành từ năm 2015 để đáp ứng cho hai vấn đề là bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia vì khai thác nguồn tài nguyên sơ cấp trong nước như gió, mặt trời và sinh khối; giảm áp lực cho tài nguyên môi trường. Qua nghiên cứu gần đây của chúng tôi về mặt tác động xã hội, về vấn đề lao động việc làm thì cho thấy còn có nhiều những đồng lợi ích khác khi mà chuyển sang ưu tiên phát triển nguồn năng lượng này. Như trong phần trước tôi cũng có chia sẻ, khi vấn đề phát triển năng lượng tái tạo trở thành xu thế và hiện nay đang có cụm từ là “chuyển dịch năng lượng” –việc chuyển dịch này không chỉ đang diễn ra ở những nước tiên tiến và nước phát triển nữa, mà gần đây chúng ta cũng thấy ở một số nước đang phát triển như Nam Phi, Chi Lê… họ đã có những bước tiến, những chuyển dịch trong chính sách. Vậy chuyển dịch sáng phát triển năng lượng tái tạo không chỉ có ý nghĩa đối với ngành năng lượng mà chuyển dịch cả mô hình kinh tế. Đây là cơ hội giúp Việt Nam có thể thu hút nguồn lực tài chính cho đầu tư cơ sở hạ tầng xanh, bởi hiện nay các nguồn tài chính cho phát triển năng lượng hoá thạch đang bị giới hạn, đang bị nhiều ngân hàng cũng như nhiều tổ chức tài chính không xem xét nữa.

Thứ hai, ngoài vấn đề bảo đảm an ninh năng lượng, cũng như giảm nguy cơ ô nhiễm thì chúng tôi nhìn thấy cơ hội trong vấn đề việc làm. Theo nghiên cứu gần đây của Viện Lao động, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội tiến hành phân tích các kịch bản phát triển năng lượng khác nhau, tính toán cho thấy tỷ trọng năng lượng tái tạo cao hơn, có lợi ích cho vấn đề lao động việc làm, hệ số tạo việc làm của ngành năng lượng tái tạo là cao hơn so với 1 MW của điện. Điểm nữa là tạo ra cơ hội về mặt mục tiêu xã hội rất phù hợp với nỗ lực của Đảng và Nhà nước cho những khu vực vùng sâu, vùng xa. Hiện nay chúng ta có chương trình điện khí hoá nông thôn đặt mục tiêu đến năm 2020, 100% hộ dân ở Việt Nam sẽ được tiếp cận điện. Hiện nay với những khó khăn trong cơ sở hạ tầng để kéo điện, với những khó khăn về nguồn lực đầu tư để mở rộng lưới điện ở khu vực này là rất khó. Vì điều kiện đặt thù của địa hình, về chi phí tài chính và nguồn lực của chúng ta có giới hạn thì việc phát triển năng lượng tái tạo để bảo đảm mục tiêu tiếp cận các khu vực này là có khả năng đáp ứng. Đặc biệt, từ kinh nghiệm phát triển năng lượng tái tạo ở các tỉnh chúng tôi đã đi nghiên cứu cho thấy nó cũng mang lại cho các địa phương trong việc rút ngắn khoảng cách đầu tư, ví dụ như Ninh Thuận, Bình Thuận là những nơi thu hút được rất nhiều nguồn đầu tư cho năng lượng tái tạo, tỉnh Ninh Thuận cũng đang có đề án xây dựng tỉnh thành trung tâm năng lượng tái tạo. Chúng ta nhìn thấy sự thay đổi đó trong bức tranh phát triển.

Đây là những cơ hội thôi thúc chúng ta chuyển đổi, dù có khó khăn. Về mặt chính sách, chúng tôi khuyến nghị thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo trong thời gian tới, vì không chỉ là liên quan đến vai trò của Bộ Công thương mà đòi hỏi sự đồng bộ của các chương trình hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ, những chương trình khởi nghiệp… cần đưa vào để có thể là nguồn đầu vào cho việc cung cấp các sáng kiến, giải pháp để vừa gọi vốn vừa tăng cường đội ngũ nhân lực và kết nối với những nguồn nhân lực đã cử đi đào tạo ở nước ngoài hay các hộ gia đình cho con em đi học trong lĩnh vực này. Như vậy vừa thu hút được nguồn lực này về để hỗ trợ phát triển đất nước, để phát triển được vấn đề nội địa hoá các thiết bị của ngành này.

Liên quan đến lĩnh vực năng lượng tái tạo thì sẽ ưu tiên gì để phát huy được lợi thế về mặt ngắn hạn để bắt kịp với thế giới trong lĩnh vực này? Ưu tiên đầu tiên là các nguồn lực nên ưu tiên để cho các nhà khoa học tham gia vào thực hiện chương trình điện khí hoá nông thôn, ứng dụng năng lượng tái tạo. Bởi đây là điều mà chúng ta sẽ phát huy được kinh nghiệm về địa phương để ứng dụng từ đấy sẽ nâng cấp lên kết nối với quy mô lớn hơn. Ưu tiên thứ hai là tập trung vào chuỗi nghiên cứu và sản xuất ra những thiết bị chuyển đổi năng lượng hay là lưu trữ năng lượng để tăng tính cạnh tranh. Ưu tiên thứ ba là kết nối với công nghệ thông tin để những thiết kế, sản xuất phần mềm điều khiển quản lý từ xa, đây là chuỗi mà về phía cơ hội rất nhiều nhưng đòi hỏi sự kết nối, liên ngạch. Cần có những chính sách hỗ trợ về tài chính thì mới có thể kích thích và thúc đẩy được điều này. Mong rằng trong giai đoạn tới đây về mặt chính sách phát triển năng lượng có lẽ cần phải có một cơ quan điều phối ở cấp Chính phủ thay vì chỉ ở một Bộ vì sẽ rất khó và đang vướng mắc rất nhiều trong quy trình, dù định hướng rất tốt.

Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng: Trong Quy hoạch điện VII (điều chỉnh), các nguồn năng lượng sạch như điện gió và điện mặt trời đã được ưu tiên điều chỉnh tăng lên đáng kể. Được biết, riêng nguồn điện mặt trời đến thời điểm này đã có hơn 11.000 MW xin đăng ký đầu tư, trong đó theo Quy hoạch điện VII (điều chỉnh) công suất điện mặt trời đưa vào vận hành là 850 MW năm 2020 và 4.000 MW năm 2025. Xin ông Nghiêm Vũ Khải đánh giá triển vọng thực tế của các dự án nguồn điện này như thế nào?

Ông Nghiêm Vũ Khải: Nếu căn cứ vào số liệu đưa ra thì tôi thấy rất đáng vui mừng. Tôi vừa được tiếp cận một tài liệu của Thái Lan, họ đưa ra mục tiêu năng lượng tái tạo 2035 đạt 30%. Việt Nam đưa ra con số là năm 2030 – đạt 20%. Con số này không hề đơn giản bởi trong 10 năm khó tăng được từ 1-2% lên 20%. Nhưng thông tin nguồn điện mặt trời đến thời điểm này đã có hơn 11.000 MW xin đăng ký đầu tư là con số rất đáng mừng. Đây là con đường mà chúng ta phải đi nếu chúng ta muốn đạt 20% vào năm 2030. Bước đầu chúng ta phải có quy hoạch về không gian, phải có đội ngũ chuyên gia, phải có công nghệ, phải xây dựng tải, xây dựng điểm tiếp nhận đưa lên hệ thống điện quốc gia, rồi vấn đề đầu tư… Tôi nghĩ không chỉ một mình EVN chịu trách nhiệm nhưng EVN là ông lớn trong ngành năng lượng thì nên bỏ tiền ra đầu tư phần nào.

Chúng ta cần có một kế hoạch cụ thể, có phân vai, có cơ chế ưu đãi… Sự hào hứng của nhà đầu tư đang cao, quản lý Nhà nước không làm tốt người ta sẽ thất vọng. Nếu đây là một cơ hội thì Nhà nước và Bộ Công thương cần bắt tay vào làm một kế hoạch cụ thể. Thậm chí cần phải có những dự án đưa vào dự án quan trọng quốc gia, đưa ra Quốc hội xin chủ trương đặc biệt. Chương trình tái tạo năng lượng quốc gia là vô cùng quan trọng, nếu cơ sở pháp lý rõ ràng vững chắc, có sự tin tưởng thì không cớ gì nhà đầu tư không đầu tư. Có như vậy mục tiêu 20% mới có thể khả thi.

Nhà báo Nguyễn Quôc Thắng: Điện gió và điện mặt trời được đánh giá là năng lượng sạch, được khuyến khích phát triển và được xem là năng lượng của tương lai. Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi cũng như tiềm năng cho phát triển năng lượng tái tạo khi vừa có bờ biển dài, nhiều ánh nắng mặt trời. Tuy nhiên, tại sao các dạng năng lượng này ở Việt Nam vẫn chưa được phát triển tương xứng với tiềm năng, thưa ông Ngô Đức Lâm? 

Ông Ngô Đức Lâm: Tôi cũng rất băn khoăn về vấn đề này. Năm 1985 đã có chương trình quốc gia về năng lượng tái tạo, nhưng đến nay chúng ta vẫn chậm chân trong việc phát triển năng lượng tái tạo. Đó là một điều đáng tiếc.


Xu thế thế giới phát triển năng lượng tái tạo nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu chứ không phải vì bảo đảm an ninh năng lượng. Do đó, các quốc gia đưa ra các tỷ lệ đóng góp của năng lượng tái tạo tăng dần, đây là một điều kiện thuận lợi để Việt Nam phát triển năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, hiện nay giá thành để phát triển năng lượng tái tạo rất cao lại là khó khăn cho Việt Nam.

Nếu chúng ta có cách tính khác cho giá điện hiện tại sử dụng năng lượng truyền thống, trong đó có phí về môi trường thì giá điện này sẽ cao hơn năng lượng tái tạo. Tôi cho rằng, cơ chế thị trường sẽ là thước đo minh bạch cho vấn đề năng lượng là yếu tố thúc đẩy ngành năng lượng của phát triển.

Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng: Việc triển khai các dự án năng lượng tái tạo gồm điện gió, điện mặt trời đạt tỷ lệ rất thấp, chưa đầy 1% so với yêu cầu. Nguyên nhân được nhiều chuyên gia chỉ ra là do các công trình này vốn vay chiếm tỷ lệ cao trong tổng mức đầu tư, lãi vay lớn sẽ làm tăng giá trị hệ số chiết khấu tài chính. Cùng với đó là những rủi ro xoay quanh sản lượng điện bán ra, giá điện... Thưa ông Lưu Bình Nhưỡng, theo để giảm áp lực cho chủ đầu tư cần có những giải pháp gì cụ thể gì?

Ông Lưu Bình Nhưỡng: Tôi cho rằng, ý kiến của chuyên gia tương đối rõ về các vấn đề liên quan đến chuyên môn. Tôi biết chiến lược phát triển năng lượng tái tạo về điện gió, điện mặt trời đã được ghi nhận, nhưng đến tận năm 2030, 18.000 MW cũng chưa phải là ghê gớm, so với thủy điện chưa là gì, chưa phải số lẻ của thủy điện. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực khó, tôi từng tiếp cận với các doanh nghiệp chuẩn bị tinh thần đầu tư về năng lượng mặt trời, nhưng họ cũng rất so sánh về công nghệ và giá cả, và lựa chọn khu vực nào tiến hành đặt thiết bị cũng là vấn đề. Thông thường các tỉnh muốn đẩy họ ra phía biển, nhưng họ nói thiết bị gỉ, bão, sóng thủy triều... cũng rất rủi ro.

Thứ nhất, tôi cho rằng phải rõ tinh thần chúng ta triển khai chiến lược, nhưng phải có chính sách khuyến khích đầu tư rõ ràng, không phải chung chung. Phải rà soát lại chính sách trong quá trình thực hiện.

Thứ hai, chính sách về đất đai, vì gắn liền với đất đai. Tôi giám sát tại Tây Nguyên, điện gió, để làm turbine gió không phải đơn giản. Chính sách đất đai ở đây không chỉ là cấp đất, mà còn chính sách giải phóng mặt bằng tái định cư. Chính sách với thủy điện có rồi, nay chính sách với điện gió như thế nào.

Thứ ba, phải có chính sách ưu đãi về vốn riêng, ưu tiên trái phiếu chính phủ và nguồn vốn ODA ưu tiên cho lĩnh vực năng lượng tái tạo. Nếu giả sử Ngân hàng Thế giới hay châu Á có vấn đề này, ta phải cân đối nợ công để ưu tiên để triển khai các dự án năng lượng tái tạo, vì có lãi suất ưu đãi và ân hạn.

Thứ tư, thủ tục hành chính phải làm nhanh ngọn. Doanh nghiệp đầu tư vào đã khó, đã đắt, lại cố tình kéo dài, gây khó khăn “hành” doanh nghiệp là không được.

Thứ năm, phải hỗ trợ về nhập khẩu các thiết bị. Chúng ta có Luật Chuyển giao công nghệ rồi, không thể sản xuất thì nhập khẩu, trong vấn đề này phải có quy định riêng.

Thứ sáu, là bảo đảm tính bền vững của hợp đồng cung ứng điện, tránh “sớm nắng chiều mưa”, không có hợp đồng vững vàng sẽ “chết” doanh nghiệp, đầu tư xong không mua thì doanh nghiệp không biết làm thế nào.

Thứ bảy, điều chỉnh giá mua bán cho hợp lý. Đồng thời phải làm sao có chính sách khuyến khích sử dụng các loại phương tiện tiết kiệm điện. Phải đồng bộ, phải khuyến khích bà con sử dụng các phương tiện, thiết bị tiết kiệm điện. Thậm chí với một số lĩnh vực bắt buộc phải có quy định sử dụng các phương tiện tiết kiệm điện, đặc biệt là lĩnh vực công.

Thứ tám, kết hợp vấn đề này để tạo ra môi trường du lịch, cho chính bản thân doanh nghiệp sản xuất điện có hệ thống công trình đa mục tiêu. Các doanh nghiệp có thể cho tham quan, thu phí, thậm chí miễn giai đoạn đầu khi họ phát triển du lịch, cho phép người ta kết hợp làm du lịch.

Làm sao tạo ra thị trường điện lành mạnh. Tăng hay giảm không phải là vấn đề quan trọng, mà quan trọng là minh bạch hóa thị trường, cho rõ ràng, đừng để nó trở thành “cơn sóng bí hiểm”. Ngành điện phải có nhạc trưởng chỉ đạo rõ ràng việc này. Muốn vậy, phải tránh thói ăn sẵn, ăn đong trong lĩnh vực năng lượng tái tạo. Phải có sự giám sát của Quốc hội, UBTVQH cần có giám sát về thực hiện quy định pháp luật về sản xuất và sử dụng năng lượng tái tạo, từ đó kiểm tra lại quy hoạch, xem xét cơ chế, và nếu cần thiết, xây dựng văn bản pháp luật có tính hiệu lực cao, trước hết có thể là pháp lệnh, hoặc có thể ra luật về năng lượng tái tạo.

Năng lượng tái tạo không chỉ là vấn đề năng lượng, mà năng lượng ở đây bảo đảm cho sự phát triển bền vững, an sinh xã hội, cho thích ứng với biến đổi khí hậu, môi trường và quan trọng nhất là đời sống con người. Phải kết nối vấn đề của Việt Nam với thế giới, không phải một mình một kiểu.

Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng: Được biết, bà Rịa – Vũng Tàu là một trong những địa phương tập trung phát triển nguồn năng lượng tái tạo để giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Kết quả đạt được thế nào, thưa ông Dương Minh Tuấn?

Ông Dương Minh Tuấn: Bên cạnh việc duy trì phát triển các nhà máy điện sử dụng năng lượng truyền thống tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chú trọng việc phát triển các nguồn năng lượng mới là năng lượng tái tạo.

Cụ thể, đối với năng lượng biogas, Bà Rịa - Vũng Tàu có một số ngành chăn nuôi lớn, có khoảng 60 - 70% các vùng chăn nuôi đã phát triển nguồn năng lượng biogas. Đối với điện gió có nhiều nhà đầu tư, tuy nhiên hiện nay các dự án vẫn chưa được triển khai. Đối với điện năng lượng mặt trời tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã và đang thúc đẩy phát triển nguồn năng lượng này. Tuy nhiên vẫn có một số vướng mắc với EVN như đã nói ở trên.

Nhà báo Nguyễn Quốc Thắng: Thưa quý vị và các bạn!

Thực tế, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức như nhu cầu năng lượng tăng cao, trong khi ràng buộc về môi trường ngày càng chặt chẽ và nặng nề hơn. Điều này một mặt gây áp lực đến việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, đồng thời tạo sức ép cho nền kinh tế trong việc huy động đủ nguồn vốn đầu tư cho ngành năng lượng.

Nhìn một cách tổng thể, dù nguồn cung năng lượng của Việt Nam thời gian qua tuy đã đáp ứng cơ bản yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tuy nhiên chúng ta cần thay đổi tư duy chiến lược năng lượng, phải tiếp cận giá năng lượng từ góc độ thị trường chứ không chỉ là nhu cầu sử dụng, dây chuyền sản xuất hay công nghệ…

Để giải quyết bài toán năng lượng cho phát triển kinh tế, cần sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả vàsử dụng công nghệ thân thiện môi trường để sản xuất năng lượng. Từ đó hướng tới nền kinh tế sử dụng cacbon thấp, thay đổi mô hình sản xuất và sử dụng điện một cách bền vững; chuyển từ giai đoạn sử dụng kém hiệu quả nhiên liệu hóa thạch sang sử dụng các nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo.

Trong buổi tọa đàm hôm nay, các nhà lập pháp, các chuyên gia, khoa học đã phân tích và đề xuất nhiều giải pháp để phát triển ngành năng lượng gắn liền với phát triển nền kinh tế đất nước. Đồng thời, tìm kiếm những nguồn năng lượng tái tạo nhằm phát triển bền vững, lâu dài. Hy vọng những thông tin quý giá này có thể giúp cung cấp cho Chính phủ, nhà quản lý đưa ra những quyết định chính sách phù hợp!

Một lần nữa, Báo Đại biểu Nhân dân trân trọng cảm ơn các vị khách quý đã tham gia tọa đàm ngày hôm nay và mong được gặp lại trong lần đối thoại lần sau.

Xin trân trọng cảm ơn!

------------------------------------

* Bản quyền thuộc về Báo Đại biểu Nhân dân. Mọi hình thức sao chép đều phải dẫn nguồn.

Tác giả bài viết: ĐBND; Ảnh: Duy Thông
Nguồn tin: www.daibieunhandan.vn

Mọi chi tiết tư vấn vui lòng liên hệ:

LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM

VIỆN CÔNG NGHỆ VÀ SỨC KHOẺ - HETEC

 Địa chỉ: Số nhà L7-45 Khu Đô thị Athena Fulland, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội

Điện thoại: 024 6680 6799                     - Hotline: 0917 021 858

Email: hetecvietnam@gmail.com            Website: https://hetec.vn 

Tin khác

FACEBOOK


LIÊN HỆ


LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM

VIỆN CÔNG NGHỆ VÀ SỨC KHỎE - HETEC

Địa chỉ: Số nhà L7-45 Khu Đô thị Athena Fulland, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội

Điện thoại: 024 6680 6799;  Email: hetecvietnam@gmail.com; Website: https://hetec.vn 

Chịu trách nhiệm nội dung: Tiến sĩ Lê Hữu Thi - Viện trưởng 

LIÊN KẾT MẠNG XÃ HỘI
Social   Social   Social  
© 2019 hetec.vn. All Rights Reserved